Cá nhân hóa điều trị là gì? Các công bố khoa học về Cá nhân hóa điều trị

Cá nhân hóa điều trị là quá trình điều chỉnh và tinh chỉnh các phương pháp điều trị để phù hợp với từng nhu cầu và đặc điểm cụ thể của mỗi bệnh nhân. Thông qua ...

Cá nhân hóa điều trị là quá trình điều chỉnh và tinh chỉnh các phương pháp điều trị để phù hợp với từng nhu cầu và đặc điểm cụ thể của mỗi bệnh nhân. Thông qua việc đánh giá các yếu tố như tuổi, giới tính, lời khuyên, lịch sử bệnh lí và phản ứng của cá nhân, cá nhân hóa điều trị nhằm tối ưu hóa hiệu quả của quá trình điều trị và tăng cường sự chăm sóc cá nhân cho mỗi bệnh nhân. Điều này có thể bao gồm việc thay đổi liều lượng thuốc, phương pháp điều trị và lịch trình, cũng như cung cấp hướng dẫn và hỗ trợ cá nhân hóa cho bệnh nhân.
Cá nhân hóa điều trị là tiếp cận trong ngành y tế, nhằm tạo ra các phương pháp điều trị tối ưu dựa trên những thông tin cá nhân về bệnh nhân. Mục tiêu của cá nhân hóa điều trị là cung cấp một quy trình chăm sóc sức khỏe nhằm đáp ứng đúng mục tiêu và nhu cầu đặc trưng của từng bệnh nhân, đồng thời tối đa hóa kết quả điều trị và giảm thiểu các tác dụng phụ không mong muốn.

Cá nhân hóa điều trị liên quan đến việc đánh giá các yếu tố như tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe, di truyền, lịch sử bệnh và tình trạng cơ địa để tạo ra một phác đồ điều trị riêng cho từng bệnh nhân. Qua đó, việc xác định các rào cản và nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc điều trị sẽ giúp nâng cao hiệu quả của quá trình chăm sóc và giúp bệnh nhân đạt được mục tiêu điều trị.

Cá nhân hóa điều trị có thể bao gồm các phương pháp sau:

1. Điều chỉnh liều lượng thuốc: Công việc cá nhân hóa điều trị bao gồm xác định liều lượng thuốc phù hợp với từng bệnh nhân dựa trên số liệu và đặc điểm cá nhân. Điều này giúp đảm bảo rằng mức độ hấp thụ và tác động của thuốc đạt được mức tối đa.

2. Điều chỉnh phương pháp điều trị: Cá nhân hóa điều trị có thể dẫn đến thay đổi phương pháp điều trị, ví dụ như sử dụng kỹ thuật thay thế hoặc bổ sung vào phác đồ điều trị chính.

3. Lịch trình điều trị cá nhân hóa: Tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe và nhu cầu của bệnh nhân, lịch trình điều trị có thể được điều chỉnh để đảm bảo cung cấp sự chăm sóc phù hợp và hiệu quả.

4. Hỗ trợ và giáo dục: Cá nhân hóa điều trị cũng bao gồm việc cung cấp hướng dẫn cá nhân hóa và hỗ trợ cho bệnh nhân, nhằm giúp họ hiểu rõ về tình trạng sức khỏe của mình và thực hiện đúng quy trình điều trị.

Tổng quan, cá nhân hóa điều trị là một phương pháp tiếp cận cá nhân hóa trong ngành y tế, tạo ra quy trình chăm sóc sức khỏe tối ưu cho từng bệnh nhân dựa trên thông tin cá nhân của họ. Điều này giúp tối đa hóa hiệu quả điều trị và cung cấp một quy trình chăm sóc đáp ứng đúng mục tiêu và nhu cầu của từng bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cá nhân hóa điều trị":

Kết quả về hình ảnh X-quang, lâm sàng và chức năng của điều trị bằng adalimumab (kháng thể đơn dòng kháng yếu tố hoại tử khối u) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động đang nhận điều trị đồng thời với methotrexate: Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược kéo dài 52 tuần Dịch bởi AI
Wiley - Tập 50 Số 5 - Trang 1400-1411 - 2004
Tóm tắtMục tiêu

Yếu tố hoại tử khối u (TNF) là một cytokine tiền viêm quan trọng liên quan đến viêm xương khớp và thoái hóa ma trận khớp trong bệnh viêm khớp dạng thấp (RA). Chúng tôi đã nghiên cứu khả năng của adalimumab, một kháng thể đơn dòng kháng TNF, về việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc của khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng thể chất ở bệnh nhân RA đang điều trị đồng thời với methotrexate (MTX).

Phương pháp

Trong thử nghiệm mù đôi, đối chứng với giả dược này diễn ra tại nhiều trung tâm kéo dài 52 tuần, 619 bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX đã được chọn ngẫu nhiên để dùng adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi hai tuần một lần (n = 207), adalimumab 20 mg hàng tuần (n = 212), hoặc dùng giả dược (n = 200) cùng với MTX. Kết quả chính là tiến triển X-quang tại tuần 52 (điểm Sharp tổng thể theo phương pháp sửa đổi [TSS]), đáp ứng lâm sàng tại tuần 24 (cải thiện ít nhất 20% theo tiêu chí cốt lõi của American College of Rheumatology [ACR20]), và chức năng cơ thể tại tuần 52 (chỉ số khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe [HAQ]).

Kết quả

Vào tuần 52, có sự tiến triển X-quang ít hơn đáng kể theo đo lường bằng sự thay đổi trong TSS ở những bệnh nhân dùng adalimumab 40 mg hai tuần một lần (thay đổi trung bình ± SD 0.1 ± 4.8) hoặc 20 mg mỗi tuần (0.8 ± 4.9) so với nhóm giả dược (2.7 ± 6.8) (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Ngoài ra, có sự thay đổi đáng kể trong thành phần của TSS. Tại tuần 24, 63% và 61% bệnh nhân trong nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, trong khi chỉ 30% bệnh nhân ở nhóm giả dược đạt được (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, 59% và 55% nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, so với 24% nhóm giả dược (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, chức năng cơ thể đo lường bằng HAQ cho thấy cải thiện đáng kể với adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần so với giả dược (thay đổi trung bình chỉ số HAQ là −0.59 và −0.61 so với −0.25; P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tổng cộng có 467 bệnh nhân (75.4%) hoàn tất 52 tuần điều trị. Adalimumab nhìn chung được dung nạp tốt. Các trường hợp ngừng điều trị xảy ra ở 22.0% bệnh nhân điều trị bằng adalimumab và 30.0% bệnh nhân điều trị bằng giả dược. Tỷ lệ biến cố nghiêm trọng và không nghiêm trọng tương tự nhau giữa nhóm adalimumab và giả dược, mặc dù tỷ lệ báo cáo nhiễm trùng nghiêm trọng cao hơn ở bệnh nhân nhận adalimumab (3.8%) so với giả dược (0.5%) (P ≤ 0.02), đặc biệt cao ở nhóm 40 mg hai tuần một lần.

Kết luận

Trong thử nghiệm kéo dài 52 tuần này, adalimumab cho thấy hiệu quả hơn so với giả dược trong việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng cơ thể ở bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX.

#Yếu tố hoại tử khối u #viêm khớp dạng thấp #adalimumab #methotrexate #liệu pháp đồng thời #đối chứng với giả dược #kháng thể đơn dòng #tiến triển cấu trúc khớp #chức năng cơ thể #thử nghiệm ngẫu nhiên #X-quang #ACR20 #HAQ.
Hiệu quả và độ an toàn của rituximab ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động bất chấp điều trị methotrexate: Kết quả của thử nghiệm giai đoạn IIB ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược, thử nghiệm định lượng liều Dịch bởi AI
Wiley - Tập 54 Số 5 - Trang 1390-1400 - 2006
Tóm tắtMục tiêu

Nghiên cứu hiệu quả và độ an toàn của các liều rituximab khác nhau kết hợp với methotrexate (MTX), có hoặc không có glucocorticoid, ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (RA) hoạt động kháng thuốc điều trị điều chỉnh bệnh (DMARDs), bao gồm các tác nhân sinh học.

Phương pháp

Tổng cộng có 465 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào 9 nhóm điều trị: 3 nhóm rituximab (giả dược [n = 149], 500 mg [n = 124], hoặc 1.000 mg [n = 192] vào các ngày 1 và 15) mỗi nhóm cũng dùng hoặc giả dược glucocorticoid, tiền điều trị bằng methylprednisolone tiêm tĩnh mạch, hoặc tiền điều trị bằng methylprednisolone tiêm tĩnh mạch kết hợp với prednisone uống trong 2 tuần. Tất cả bệnh nhân đều nhận MTX (10–25 mg/tuần); không cho phép sử dụng các DMARDs khác.

Kết quả

Có tỷ lệ cao hơn đáng kể các bệnh nhân nhận 2 liều x 500 mg hoặc 2 liều x 1.000 mg truyền rituximab đáp ứng tiêu chí cải thiện 20% theo Hiệp hội Thấp khớp Hoa Kỳ (phản ứng ACR20) vào tuần thứ 24 (55% và 54%, tương ứng) so với giả dược (28%; P < 0.0001). Các phản ứng ACR50 đạt được ở 33%, 34%, và 13% bệnh nhân, tương ứng (P < 0.001), và các phản ứng ACR70 đạt được ở 13%, 20%, và 5% bệnh nhân (P < 0.05). Các thay đổi trong Điểm Hoạt động Bệnh trên 28 khớp (−1.79, −2.05, −0.67; P < 0.0001) và phản ứng trung bình đến tốt theo tiêu chí của Liên đoàn Thấp khớp Châu Âu phản ánh các kết quả ACR. Glucocorticoid không đóng góp đáng kể vào điểm hiệu quả chính, phản ứng ACR20 ở tuần thứ 24. Tiền điều trị bằng glucocorticoid tiêm tĩnh mạch giảm tần suất và cường độ của các sự kiện liên quan đến truyền đầu tiên; glucocorticoid uống không đem lại lợi ích an toàn bổ sung. Rituximab được dung nạp tốt; loại và mức độ nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng tương tự như giả dược.

Kết luận

Cả hai liều rituximab đều hiệu quả và được dung nạp tốt khi được thêm vào liệu pháp MTX ở những bệnh nhân RA hoạt động. Điểm hiệu quả chính (phản ứng ACR20) độc lập với glucocorticoid, mặc dù tiền điều trị bằng glucocorticoid tiêm tĩnh mạch cải thiện khả năng dung nạp trong lần truyền rituximab đầu tiên.

#Rituximab #Viêm khớp dạng thấp #Methotrexate #Glucocorticoid #Hiệu quả #Độ an toàn
Chất tác nhân quang nhiệt 2D NIR‐II hiệu suất cao với hoạt tính xúc tác Fenton cho liệu pháp quang nhiệt–hóa động lực học kết hợp trong điều trị ung thư Dịch bởi AI
Advanced Science - Tập 7 Số 7 - 2020
Tóm tắt

Liệu pháp quang nhiệt (PTT) đã nổi lên như một phương thức điều trị ung thư hứa hẹn với độ đặc hiệu cao, tuy nhiên, hiệu quả điều trị của nó bị hạn chế bởi việc thiếu các tác nhân quang nhiệt hiệu suất cao (PTAs), đặc biệt trong vùng bức xạ hồng ngoại gần thứ hai (NIR‐II). Trong nghiên cứu này, dựa trên các tấm nano FePS3 được chiết tách từ lỏng, một PTA NIR‐II có hiệu suất cao với hiệu suất chuyển đổi quang nhiệt lên đến 43,3% đã được chứng minh, đây là một trong những giá trị cao nhất được báo cáo trong các PTA điển hình. Quan trọng hơn, các tấm nano 2D dựa trên Fe này cũng cho thấy hoạt tính xúc tác Fenton vượt trội nhờ diện tích bề mặt riêng siêu cao của chúng, đồng thời cho phép liệu pháp hóa động lực học (CDT) trong điều trị ung thư. Đáng chú ý, hiệu quả của CDT có thể được nâng cao hơn nữa nhờ hiệu ứng quang nhiệt, dẫn đến liệu pháp PTT/CDT tăng cường cho ung thư. Cả trong các nghiên cứu in vitro và in vivo đều cho thấy hiệu quả tiêu diệt khối u cao dưới sự chiếu xạ ánh sáng NIR‐II. Nghiên cứu này cung cấp một mô hình cho liệu pháp CDT và PTT trong vùng bức xạ NIR‐II thông qua một nền tảng nano 2D đơn lẻ với hiệu ứng điều trị mong muốn. Hơn nữa, với khả năng bổ sung cho hình ảnh cộng hưởng từ, chụp ảnh quang động học, cũng như tải thuốc, vật liệu 2D dựa trên Fe này có thể đóng vai trò như một nền tảng nanodiagnostic “tất cả trong một” 2D.

#hệ thống quang nhiệt #ung thư #liệu pháp quang nhiệt #liệu pháp hóa động lực học #NIR‐II #xúc tác Fenton
Nghiên cứu về một số yếu tố ảnh hưởng đến mong muốn điều trị niềng răng Dịch bởi AI
Informa UK Limited - Tập 13 Số 2 - Trang 87-94 - 1986

Một mẫu gồm 207 bệnh nhân và phụ huynh của họ đã được khảo sát để đánh giá tác động của các bất thường khớp cắn khác nhau và các yếu tố khác đến việc kích thích mong muốn điều trị niềng răng. Từ các kết quả thu được, có thể thấy rằng cần phải chú ý nhiều hơn đến những sai lệch khớp cắn và thẩm mỹ cụ thể mà bệnh nhân cảm thấy lo ngại: không nên có những giả định chỉ dựa vào tình trạng khớp cắn hiện có.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng đối với phần lớn bệnh nhân, việc cung cấp dịch vụ điều trị niềng răng chủ yếu được quyết định bởi yếu tố thẩm mỹ, nhưng bác sĩ nha khoa tổng quát đã có tác động đáng kể đến sự chấp nhận điều trị của bệnh nhân.

#niềng răng #khớp cắn #điều trị thẩm mỹ #tâm lý bệnh nhân #bác sĩ nha khoa tổng quát
ỨNG DỤNG MÔ HÌNH SWOT ĐỂ ĐÁNH GIÁ NHU CẦU TƯ VẤN PHÒNG, CHỐNG VIÊM GAN B CHO BỆNH NHÂN TẠI KHOA NGHIÊN CỨU VÀ ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN, BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 1 - 2022
Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ dân số nhiễm viêm gan B (VGB) cao trên thế giới, nhưng kiến thức và thực hành phòng chống VGB chưa tốt. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá nhu cầu tư vấn phòng chống viêm gan B của người bệnh tại khoa Viêm gan, Bệnh viện Chợ Rẫy. Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang kết hợp định lượng và định tính, sử dụng mô hình phân tích SWOT (đánh giá thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức). Nghiên cứu định lượng phỏng vấn 231 người bệnh và 06 cuộc thảo luận nhóm/ phỏng vấn sâu với người bệnh và cán bộ bệnh viện. Kết quả: nhu cầu tư vấn là 95,7%, nội dung tư vấn chủ yếu về dinh dưỡng và dự phòng VGB. Thuận lợi của là bệnh viện có chuyên môn tốt, người bệnh hợp tác tốt. Khó khăn là người bệnh đông, chủ yếu là người ngoại tỉnh. Cơ hội và thách thức trong triển khai can thiệp cho người bệnh cũng được ghi nhận. Kết luận: Nhu cầu tư vấn VGB rất cao. Mô hình SWOT đơn giản và phù hợp trong đánh giá nhu cầu, có thể ứng dụng cho các chương trình y tế khác.
#SWOT #phòng lây nhiễm #viêm gan B #bệnh viện Chợ Rẫy #người mới nhập viện
SẢN XUẤT THUỐC BẰNG CÔNG NGHỆ IN 3D FDM PHẦN 3: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ IN 3D FDM TRONG LĨNH VỰC DƯỢC PHẨM VÀ NHỮNG THÁCH THỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
In 3D FDM là công nghệ bồi đắp từng lớp để tạo thành cấu trúc chi tiết 3 chiều của vật thể với độ chính xác cao. Công nghệ mới này mở ra cơ hội sản xuất các thuốc cá nhân hóa hướng tới người bệnh là trung tâm, phục vụ nhu cầu điều trị riêng theo khả năng đáp ứng của mỗi người bệnh. Đồng thời, công nghệ này cho phép sản xuất các dạng thuốc cấu trúc phức tạp, thuốc đa thành phần, hệ nổi, dạng thuốc có kiểm soát giải phóng... Tuy có nhiều tiềm năng, song công nghệ in 3D cũng gặp phải không ít thách thức khi triển khai thực tiễn. Có thể kể đến đó là: khó khăn trong việc nâng quy mô sản xuất, đảm bảo chất lượng và những vấn đề liên quan bản quyền, thủ tục pháp lý.
#Công nghệ in 3D #thuốc in 3D #cá nhân hóa điều trị #thuốc kiểm soát giải phóng
Nghiên cứu sự biến đổi áp lực trong bóng cuff ống nội khí quản ở bệnh nhân thở máy tại Khoa Điều trị tích cực, Bệnh viện Quân y 103
Mục tiêu: Đánh giá về sự thay đổi áp lực trong cuff (ALTC) của ống nội khí quản ở bệnh nhân thở máy. Đối tượng và phương pháp: 122 bệnh nhân thở máy tại Khoa Điều trị tích cực, Bệnh viện Quân y 103. Đo ALTC nền (thời điểm T0) và mỗi 2 giờ sau đặt ống nội khí quản và thở máy, đo ALTC sau khi chăm sóc, vệ sinh hoặc hút đờm qua ống nội khí quản. So sánh ALTC tại các thời điểm với giá trị nền. Kết quả: ALTC ở giới hạn bình thường (20 - 30cm H2O) là 89,3%, giới hạn thấp (< 20cm H2O) là 1,7% và giới hạn cao (> 30cm H2O) chiếm 9,0%. ALTC tăng có ý nghĩa thống kê khi thay đổi tư thế và giảm có ý nghĩa sau vệ sinh, thay ga hoặc hút đờm qua ống nội khí quản so với giá trị nền (p<0,05). Kết luận: 10,7% số bệnh nhân có ALTC ngoài giới hạn bình thường. Thay đổi tư thế bệnh nhân làm tăng ALTC và sau khi chăm sóc, hút ống nội khí quản làm giảm ALTC (p<0,05). Thay đổi ALTC có liên quan đến thay đổi tư thế, chăm sóc và hút ống nội khí quản.
#Áp lực trong cuff #ống nội khí quản
Mối liên quan giữa giá trị procalcitonin với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm khuẩn điều trị tại Khoa Điều trị Tích cực, Bệnh viện Nhi Trung ương
Mục tiêu: Đề tài được tiến hành nhằm đánh giá mối liên quan giữa giá trị procalcitonin (PCT) với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên bệnh nhân nhiễm khuẩn. Đối tượng và phương pháp: Đây là nghiên cứu tiến cứu mô tả được tiến hành trên 96 bệnh nhân từ 1 tháng đến 18 tuổi với các mức độ nhiễm khuẩn khác nhau. Kết quả: Nồng độ PCT máu có liên quan với đặc điểm lâm sàng (tương quan tuyến tính thuận với nhiệt độ, nhịp tim, và tương quan tuyến tính nghịch với huyết áp tâm thu) và đặc điểm cận lâm sàng (CRP, bạch cầu máu ngoại biên) ở bệnh nhân nhiễm khuẩn. Kết luận: PCT là marker liên quan đến tình trạng lâm sàng, cận lâm sàng và giúp đánh giá mức độ nhiễm khuẩn.
#Procalcitonin #nhiễm khuẩn
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ GIAI ĐOẠN SAU PHẪU THUẬT Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ TUYẾN GIÁP THỂ BIỆT HÓA ĐIỀU TRỊ I-131 TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU CẦN THƠ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 540 Số 2 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và giai đoạn sau phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tại bệnh viện Ung bướu Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên 257 bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa điều trị I-131 tại bệnh viện Ung bướu Cần Thơ từ tháng 7/2016 đến tháng 6/2022. Kết quả: Tỉ lệ nữ mắc bệnh cao gấp 11 lần nam giới, tuổi trung bình là 44,5 ± 11,8. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là sờ thấy khối u vùng cổ. Kết quả mô bệnh học chiếm cao nhất là ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú. Giai đoạn bệnh sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ cao nhất là giai đoạn I. Trung vị nồng độ Tg sau phẫu thuật là 6,6 ng/ml. Có 1.6% bệnh nhân thay đổi giai đoạn sau điều trị I-131
#đặc điểm ung thư tuyến giáp #điều trị I-131
GIÁ TRỊ SIÊU ÂM TRONG CHẨN ĐOÁN HẠCH CỔ DI CĂN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ TUYẾN GIÁP THỂ BIỆT HÓA SAU PHẪU THUẬT VÀ ĐIỀU TRỊ 131I
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục đích: Mục đích của nghiên cứu là xác định giá trị của siêu âm B Mode và Doppler màu trong chẩn đoán di căn hạch cổ ở bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa sau phẫu thuật và điều trị 131I. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu, mô tả cắt ngang 61 bệnh nhân với 123 hạch cổ. Bệnh nhân được phẫu thuật vét hạch làm mô bệnh học tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 trong thời gian từ tháng 10/2020 đến tháng 4/2021. Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành siêu âm ở 123 hạch vùng cổ. Đối chiếu với kết quả giải phẫu bệnh, có 73 hạch di căn, 50 hạch không di căn. Hình dạng tròn, mất rốn hạch, hồi âm, vôi hóa và mạch máu bất thường gặp ở hạch di căn hơn so với hạch không di căn, trong khi ranh giới và kích thước không khác biệt đáng kể. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm, độ chính xác của phương pháp siêu âm 2D kết hợp siêu âm Dopper lần lượt là 90,4%, 84 %, 89,2%, 85,7% và 87,8%. Kết luận: Trong nghiên cứu này, siêu âm 2D kết hợp siêu âm Doppler màu có giá trị rất cao trong chẩn đoán hạch cổ ác tính. Việc thực hiện siêu âm đánh giá hạch cổ góp vai trò giảm thiểu nhu cầu chọc tế bào/ sinh thiết hạch cổ lành tính.
#siêu âm B-mode #siêu âm Doppler màu #ung thư tuyến giáp #di căn hạch
Tổng số: 57   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6